Please wait
Tiểu Sử Thiền Sư Lương Sĩ Hằng - Vĩ Kiên (Trích sách “Phương Pháp Công Phu - Thực Hành Tự Cứu”)
Thiền sư Lương Sĩ Hằng sinh ngày 20 tháng 12 năm 1923 (nhằm ngày 13 tháng 11 năm Quý Hợi) tại Qui Nhơn, thuộc tỉnh Bình Định, Việt Nam. Cha là ông Lương Thâm, Mẹ là bà Lâm Thị, trong một gia đình đông con, gồm bốn người con trai và bốn người con gái. Khi còn trẻ, ông thường đau yếu nên hay có ý nghĩ chán đời. Qua những thiên cơ biến chuyển, như bão lụt vô cùng nguy hiểm, nhà tan cửa nát ở miền Trung mà ông đã dự từ lúc ấu thơ, từ đấy, ông bắt đầu tìm đến sự huyền bí của Trời Đất. Đến khi trưởng thành ông lập gia đình và có hai người con gái nuôi.
Năm 1957 ông có cơ duyên gặp được cụ Đỗ Thuần Hậu (1883-1967). Ông được cụ tận tình chỉ dạy Pháp Lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp, một pháp tu thiền tại gia (Đời Đạo Song Tu).
Năm 1978, với sứ mạng hoằng pháp, thiết tha độ đời, Thiền sư rời Việt Nam, đến trại tỵ nạn Fabella, Phi Luật Tân. Tại đây, Thiền sư đã giúp trị bịnh cho đồng bào và các viên chức người Phi bằng phương pháp châm cứu. Trong thời gian ở Phi Luật Tân, nếu có ai phát tâm thì Thiền sư lại đem giúp các trại tỵ nạn Bataan, Palawan và Fabella, Thiền sư còn dành nhiều thì giờ giảng giải phương pháp tu thiền cho đồng bào trong các trại tỵ nạn.
Năm 1979 Thiền sư rời trại tỵ nạn đi định cư tại Montreal, Gia Nã Đại. Hàng năm theo lời mời của các bạn đạo Vô Vi, Thiền sư đã đi thuyết giảng tại khắp các quốc gia trên các lục địa Âu, Á, Úc và Mỹ. Tuy tuổi đời đã cao, nhưng Thiền sư cũng không quản ngại nhọc nhằn, gian khổ, tiếp tục đi khắp nơi truyền pháp cho người Việt Nam, hầu giúp mọi người tìm thấy con đường bình an và giải thoát. Tất cả các bài giảng của Thiền sư đã được bạn đạo phát tâm thâu vào cassettes, CD, DVD, và đã được Hội Ái Hữu Vô Vi in ra thành sách.
Thiền sư Lương Sĩ Hằng liễu đạo vào ngày 23 tháng 9 năm 2009 (nhằm ngày 5 tháng 8 năm Kỷ Sửu) tại Montreal, Gia Nã Đại. Ngài hưởng thọ 86 tuổi. Sự ra đi của Thiền sư đã để lại biết bao thương nhớ và lòng tôn kính của bạn đạo Vô Vi khắp nơi trên toàn thế giới.
Thiền... (Trích sách “Nguyên Lý Tận Độ”, Tác Giả: Lương Vĩ Kiên)
Qua những chuỗi ngày vật lộn với đời, ai ai cũng mệt mỏi muốn có được giờ giấc nghỉ ngơi và thoải mái, nhưng không sao gặp được pháp tốt để hành triển. Bắt buộc phải hướng tâm về tiền tình duyên nghiệp, bị vày xéo tâm can mang bệnh mà không lối thoát. Trang sử động loạn đã và đang bước qua với thiên cơ biến chuyển cực khổ vô cùng. Con người bắt đầu mới tìm đến nguyên lý sanh tồn của Trời Đất, mới cảm thức được ồn ồn ào ào rồi đâu cũng sẽ về đấy, nhiên hậu mới cảm thức được trật tự của chính mình hòa hợp với Trời Đất là quý giá, mới bằng lòng tìm một lối thoát cho chính mình, tức là Tu. Tu sửa trong trật tự, tự đạt đến thanh tịnh, chỉ có thiền mới đạt được sự quân bình và giác tâm, phát triển huyền bí trong nội tâm. Cơ hội này có một không hai là mang xác làm người khối óc sống động vô cùng. Trí tâm thanh nhẹ nhờ dứt khoát được chủ kiến, thành tâm tu thiền là sẽ tự giải được nghiệp tâm. Bằng lòng co lưỡi răng kề răng niệm Phật cho đến lúc khai mở được điển tâm.Trung tim bộ đầu khí tinh trụ, điển tâm xuất phát hòa hợp với tinh ba của vũ trụ thì phần hồn càng thức giác được sự huyền vi của Trời Đất mà hành triển thì tâm lẫn thân sẽ được bình an. Hòa hợp với nguyên khí của Trời Đất, thì âm thinh sẽ được dung hòa và truyền cảm. Chỉ có thiền đúng pháp khứ trược lưu thanh thì mới đạt được điểm tốt của Trời Đất mà hành sự. Tận độ quần sanh, qua những lời chân thật đã tự đạt. Chỉ có thiền mới hội tụ được điển, chỉ có điển thì mới hòa hợp với điển giới, phát triển siêu thức của hành giả, hội nhập với từ quang diệu thanh của đấng Đại Bi toàn năng, bằng lòng dấn thân phục vụ quần sanh, dẫn tiến tâm linh phát triển đến vô cùng – không biên giới, không giới hạn, thật sự thực hiện tình thương và đạo đức. Duyên may mới được nghe qua pháp tu thiền tự thức là Pháp Lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp, một pháp thích ứng cho tất cả mọi pháp, chỉ có thực hành sẽ được đến nơi tươi sáng của Trời Đất.
Lời Tự Thuật
(Trích từ video Phương Pháp Công Phu thực hiện tại Boston Massachussetts vào năm 1993 )
Tôi xin giới thiệu tôi tên là Lương Sĩ Hằng, sanh ngày 13 tháng 11 năm 1923 tại Qui Nhơn, Việt Nam. Sống trong gia đình đông con, trong thời đó, xã hội thiếu thốn mọi mặt, tâm tư tôi lúc nào cũng muốn phát triển để giúp đỡ gia đình, đến lớn bệnh hoạn rất nhiều, đi học gián đoạn, thấy cuộc đời không tiến thân, tự thấy mình sống được tới 30 tuổi là phước rồi, nhưng mà lân la, lân la tới ngày hôm nay. Thì trong cuộc đời giữa đường thì cũng thấy khổ không, tất cả những hoàn cảnh khổ, những người đau khổ, những hiện tượng khổ hiện lên ở Việt Nam, mọi người đều đau khổ. Sống thời vua chúa thì vua chúa sung sướng, chứ dân không được sung sướng. Người dân may là sống, rủi là chết vậy thôi, cứ tiếp tục trong cuộc sống. Rồi trên đường đời tham gia vô mọi hoàn cảnh, buôn bán làm ăn khổ cực, không bao giờ phát triển được, đâm ra chán đời, mới nhìn lại, thấy cuộc đời là gì? Cuộc sống là gì? Tại sao con người không có hạnh phúc? Con người có khối óc sống chung với nhau nhưng mà nghịch nhau, không biết thương nhau. Lúc đó tôi mới đem tâm hướng về Trời Phật. Trời Phật là gì? Là sự thanh nhẹ vô cùng của bên trên. Phật là gì? Là một con người đau khổ, giải nghiệp tâm, tiến hóa tới thanh tịnh nhẹ nhàng.
Từ đó tôi đem tâm nghĩ đến Trời Phật, nghĩ đến kinh kệ, nghĩ đến những người đã dấn thân đi tu, và thương quý những người dấn thân đi tu. Tôi mới nghe kinh, rất thích nhưng mà cũng không hiểu lý do gì. Từ đó tôi suy tư, suy tư mãi, mới nhìn thấy người bạn tôi, mặt mày càng ngày càng sáng lạng, mắt càng ngày càng sáng, thấy nói chuyện rất thông minh, tôi mới hỏi người làm sao mà được như vậy. Người đó mới cho tôi biết rằng: “Tôi tu.” Nhưng mà tôi hồi đó là thích ăn chơi, đâu có cần cái chuyện tu, nghe tới tu mình cũng chán nản. Tu là gì? Không hiểu. Thì người bạn đó nói: “Tôi sẽ giới thiệu cho anh biết ông Thầy dạy tôi tu là ông Ðỗ Thuần Hậu, ở 93 Phan Thanh Giản, Ðakao.”
Thì người bạn tôi hứa đưa tôi đi đến đó, tôi cũng cùng đi. Đi và tôi gặp Người, già mà mắt rất sáng, óc rất thông minh, nói chuyện Trời Phật, núi non, đủ chuyện, nhưng mà tôi không hiểu gì hết. Nói chuyện tôi hồi lúc nhỏ, Ngài nói cũng rất rõ ràng, nói tôi hồi nhỏ gia đình thích trang bị cho tôi thành một đứa con gái, ăn mặc đồ đầm, mọi người yêu thương và giúp đỡ tôi rất nhiều. Nhưng tôi thấy lạ làm sao ổng biết được cái chuyện hồi tôi còn nhỏ? Thì người này chắc thanh nhẹ hơn. Rồi từ đó tôi mới đi tìm tại sao người này có thể hiểu được nhiều chuyện, cũng là con người hiểu được nhiều chuyện như vậy. Thì tôi tầm đến Ngài, và tìm hiểu.
Muốn tìm hiểu phải đem tất cả những cái gì ở trên đời này mà người ta cho là hay tới thử. Tôi có một người bạn biết thôi miên và một người biết về bùa phép. Hai người đó đồng đi với tôi, đi đến thăm Ngài. Thì người tuổi trẻ đó nói: “Ông ngồi nghiêm chỉnh đi, tôi sẽ thôi miên ông.” Thì lúc đó người đó thôi miên. Thôi miên một hồi, Ông Cụ nói : “Tôi già, tội nghiệp, có làm gì lầm lỗi đâu mà ông thôi miên tôi”. Thì ông kia ổng cứ việc thôi miên. Ổng nói: “Ông già ngồi đó, tôi thôi miên.” Thôi miên một chặp thì ông cảm thấy con mắt ổng đỏ và ông nhìn tất cả trời đất đều là màu đỏ. Ổng sợ quá, ổng mới nhờ, ổng nói tiếng Trung Hoa, ổng nhờ tôi dịch lại với Ông Cụ, nói là nhờ Ông Cụ cứu, không nên cho con mắt ổng hư. Thì tôi nói “Ông làm chứ tôi đâu có biết gì đâu mà nói, ông cũng biết nói tiếng Việt Nam, ông nói với ổng.” Rồi ổng cũng năn nỉ Ông Cụ giúp đỡ, thì Ông Cụ chỉ cười nói: “ Tôi đã nói với ông rằng tôi già không làm được việc gì, ông không nên hại tôi. Nhưng mà ông hiểu điển là gì chưa? Lửa là gì chưa? Lửa của ông đốt tôi không cháy thì nó chạy về ông chớ đâu. Ngồi một chặp thì nó sẽ êm.” Thì lúc đó ông này ngồi một chặp nó êm, mới thấy lại bình thường. Lúc đó mới đứng ra xá và xin phép Ông này giúp đỡ cho tu.
Rồi còn ông bạn kia thì chơi bùa phép, có thể ngồi gác cửa cinéma, người ta lấy ghế đập đầu không đau, không sao, khi mà ông đọc bùa thì hết. Thì lúc đó Ông Tư, Ông Đỗ Thuần Hậu, ổng nói vậy: “Ông có một ông sải đi theo xung quanh ông. Ông có muốn giải ổng không? Hay là tiếp tục sống với ổng?” Thì ông kia mới: “Thiệt chúng tôi có xin bùa ở Cao Miên để hộ mạng, vậy nhờ ông giải dùm.”
Lúc đó là ba anh em chúng tôi mới xin Ông Đỗ Thuần Hậu dạy cho chúng tôi tu, chúng tôi thành tâm đến tu. Thì Ổng nói: “Ba thằng này là nguy hiểm lắm. Bây giờ phải mua nhang đèn tới cúng tôi mới cho tu, mà đảnh lễ với Tổ rồi phải giữ tu suốt đời chớ không có thể mà dối trá được.” Thì tôi mới mua nhang đèn xin cúng, xin tu. Ba anh em tu. Tu thì cái ông thôi miên tu khá hơn, ổng thấy ánh sáng này kia kia nọ, thì ổng được thưởng. Mà chính tôi là bị chê nhiều nhất, nói tôi không thể tu được; “chỉ cố gắng làm sao chứ tôi thấy không tu được, thấy bạn không tu được.” Thì tôi mới cố gắng, tôi không có nói, tôi chỉ làm thinh, nghe để học và tu mà thôi.
Tôi thấy cuộc đời đều là khổ, không có cái gì sung sướng hết. Tôi chỉ âm thầm lo tu, tu ngày tu đêm, tu một mình, tu cho đến gia đình phản đối, không ai thương đến tôi. Rồi tôi chỉ ăn một chén cơm, trái cà qua ngày thôi. Chỉ có ăn để sống, mà để tìm lại cái sự thanh tịnh của chính mình mà thôi. Ráng ngày đêm lo tu, ngồi trong góc đó tu, cái giường ngủ cũng không có nữa, rất cố gắng tu. Tu tới ngày hôm nay, thì từ đó là 1957 tu tới bây giờ.
Triền miên lo tu, biết bao nhiêu cảnh nghịch cảnh, về đời cũng là nghịch, về đạo, về thiêng liêng, về cõi âm cũng nghịch, nhiều chuyện phá quấy, nhưng mà tâm tôi dứt khoát, một đường phát triển tâm linh đi tới. Con người muốn tìm ra hạnh phúc, phải tìm tâm linh mới có hạnh phúc, chớ thể xác không có hạnh phúc, nay khỏe mai bệnh không giải quyết được. Chỉ tâm linh mới giải quyết trọn lành, cho nên do đó tôi tu.
Ở Việt Nam tự nhiên bao nhiêu người đến nhà tôi và xin hỏi đạo, đặt nhiều câu hỏi tôi giải thích đều thông. Từ đó tới bây giờ tôi không có rảnh rỗi. Rồi triền miên ra đến đây cũng giúp đỡ người Việt Nam đau khổ. Khi rời quê hương xứ sở ai cũng mang cái tâm tình đau khổ, muốn giải quyết cho mình được thanh tịnh, hạnh phúc hơn. Thì tôi ngày đêm lo tu có kết quả tốt, thanh nhẹ, tôi muốn cống hiến cái phương pháp tôi đã và đang hành cho mọi người.
Nhân loại đang khao khát sự đau khổ, nhân loại đang tìm khả năng của con người, đang tìm nội khoa tâm lý của chính mình, không hiểu mỗi người là một khả năng trong vũ trụ này. Cho nên chúng ta có cái xác, Tiểu Thiên Ðịa này là bao gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ – tim, gan, tỳ, phế, thận; nó có ngũ sắc ngũ quang, huyền sắc huyền quang trong cơ tạng chúng ta và khối óc, mà chúng ta thiếu thanh tịnh thì nó mất đi cái ánh sáng trong nội thức. Cho nên chỉ có tu thiền mới tiềm tàng lại những cái gì mà chúng ta mất.
Cuộc đời chúng ta thấy rõ hoàn cảnh là ân sư. Thế gian thiếu thốn đủ chuyện, mà chúng ta cố gắng đi tới sự thanh tịnh hòa ái tương thân với mọi người thì tự nhiên chúng ta sẽ có tất cả. Như ngày hôm nay những người Việt Nam đã đi khắp thế giới năm châu để tiềm tàng lại sự mất mát của bao nhiêu kiếp. Mà nếu người tu về tâm linh thì thấy rõ hơn, thấy chúng ta đã mất cái vốn thanh tịnh sẵn có của chính chúng ta. Những người sống trong chế độ vật chất thì đua đòi vật chất, chỉ đồng tiền trên hết, nhưng mà rốt cuộc là cũng phải tâm linh mới giải quyết được, sự đau khổ trong nội tâm không có thể phơi bày cho tất cả mọi người. Mọi người tự hiểu, và tự tu, tự thanh tịnh mới giải quyết được, dù làm lớn đến nhỏ cũng vậy thôi, tới ông tổng thống, tới một người dân cũng vậy, cũng mang sự đau khổ không thể giải quyết được.
Trừ phi những người tu mà giải quyết được cái điện năng trong cơ tạng, và khối óc chúng ta hội tụ, hòa tan với vũ trụ quang, lúc đó chúng ta mới có một cái chấn động nhanh nhẹ, mới kêu bằng thanh tịnh. Mà nếu chúng ta không hòa hợp với cái chấn động thanh nhẹ của vũ trụ quang thì chúng ta không có thanh tịnh, lúc nào cũng bị sự kích động và phản động nó làm cho chúng ta gia tăng sự tham muốn, đòi hỏi và rốt cuộc không đi đến đâu.
Cho nên tôi tu tới ngày hôm nay tôi thấy rằng con người động loạn, thiếu kiên nhẫn, cho nên phải dùng cái phương pháp tu học mà tôi đã gặt hái được.