Giải Nghĩa Lục Tự Di Đà
NAM thuộc Cung-Ly lửa Bính Đinh
MÔ là chỉ rõ vật vô-hình
A gồm Nhâm-Quí an nơi thận
DI giữ chặt bền ba báu linh
ĐÀ ấy sắc vàng trùm khắp cả
PHẬT hay thanh-tịnh ở nơi mình
Hống Diên hai tám hòa nên một
Rồng cọp thâu về tợ Nguyệt Tinh.
NAM thật phương Nam lửa Bính-Đinh
Cung-Ly thuộc Ngọ ở nơi mình
Phát ra hừng cháy cùng Trời Đất
Lặng-lẽ êm-ru cả tánh-tình
Hiệp một chỗ dường thu-nguyệt rạng
Tản-đòi nơi tợ tuyết trong xanh
Khảm-Ly Diên-Hống hòa hai tám
Hiệp lại một nhà tợ Nguyệt-Tinh.
MÔ vốn chữ Vô mỗi vật không
Từ đời vô-thủy chửa phân đồng
Rồi sanh hổn-độn bao trùm hết
Mới tạo Càn-Khôn tỏ một vòng
Đạo-lý hữu-tình sanh vật cả
Mẹ Cha ân-ái kết thai lòng
Vật người mới tạo rồi sau diệt
Vạn sự đều do chữ Nhứt Không.
A vốn Bắc-Phương Nhâm-Quý thủy
Thận kia là Khảm về cung Tý
Người hay luyện đặng giữ trong mình
Vàng cứng tất nhiên sanh vật quý
Mới đặng Khảm-Ly hòa Hống-Diên
Tánh thông Trời Đất đồng nguyên-lý
Ba nhà gom lại kết Anh-Linh
Xá-Lợi tỏ ngời trong Nhất-Khí.
DI giữ chặt bền ba báu linh
Cung-Ly giứt tưởng được thanh-minh
Đắp nền luyện tập công-phu gắng
Chờ lúc Trúc-Cơ kết quả thành
Biệt niệm trong mình Thần mới hóa
Lấy Ly bổ Khảm Khí bèn thanh
Đơn-điền gọm lại trong không động
Tương hội ba nhà kết Thanh-Anh.
ĐÀ ấy sắc vàng muôn kiếp ghi
Tròn vo che phủ núi Tu-Di
Càn-Khôn bao bọc vô hình dạng
Thế giới phủ giăng chẳng hướng gì
Sắc tốt mình vàng nào hoại nát
Tâm lành tướng hảo đủ từ-bi
Công-phu thuần thục lên bờ giác
Đắc quả may ra vẫn kịp thì.
PHẬT hiệu Kim-Cang ở giữa mình
Hư-không thanh tịnh hóa nên hình
Khuyên người sớm bỏ tham sân bịnh
Thần-khí phải gìn giữ rất tinh
Mười tháng công-phu năng luyện tập
Ba năm công-quả khá kiên thành
Trống lòng đầy bụng là giềng mối
Vạn sự quy về một chữ Thanh.
Đỗ Thuần Hậu
--------------------
Trích từ cuốn "Kinh A Di Đà Chú Giải" của Đức Ông Tư.